Cần những giải pháp cụ thể trong việc bảo tồn làng nghề truyền thống

Thanh Hóa là vùng đất chứa đựng lịch sử, văn hóa hàng ngàn năm, là nơi hội tụ những nét tinh hoa của nghề, làng nghề truyền thống. Do đó, việc bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống cần có những giải pháp cụ thể, căn cơ.

Người dân làng Hồng Đô, xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa vẫn miệt mài “giữ lửa” với nghề.

Vượt khó bám nghề

Về làng Hồng Đô, xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa vào những ngày này, chúng ta dễ dàng bắt gặp cảnh người dân nơi đây đang tận dụng những ngày nắng hiếm hoi sau cơn mưa thu bất chợt để làm nghề.

Là chủ cơ sở ươm tơ lớn nhất của xã, cũng là người có hơn 30 năm gắn bó với làng nghề truyền thống này, ông Hoàng Văn Ánh cho biết: “Tôi chẳng biết nghề này có từ bao giờ, nhưng tôi sinh ra và lớn lên cùng nó. Ngay từ khi còn rất nhỏ, tôi đã biết giúp bố mẹ đi hái dâu, cho tằm ăn... nên đã thấu hiểu nỗi vất vả của nghề. Và rồi tôi muốn làm một điều gì đó để gìn giữ, phát triển nghề truyền thống của ông cha trên mảnh đất quê hương mình. Thế nhưng, để có được ngày hôm nay, nghề ươm tơ dệt lụa nơi đây đã trải qua bao biến cố, thăng trầm, có những lúc tưởng chừng như bỏ cuộc bởi sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nhất là từ Ấn Độ”.

Theo thống kê của UBND xã Thiệu Đô, hiện có gần 40 hộ làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Những năm qua, nghề này gặp khó khăn như: Nguồn nhân lực hạn chế vì phần lớn người lao động ở độ tuổi thanh niên, trung niên đều có xu hướng đi làm công nhân trong các công ty hoặc tự kinh doanh buôn bán; thị trường tiêu thụ bấp bênh; diện tích trồng dâu bị thu hẹp và không tập trung nên cây dâu bị ảnh hưởng thuốc bảo vệ thực vật từ các bãi hoa màu gần đó khiến việc nuôi tằm cũng gặp nhiều khó khăn... Đã có lúc nghề ươm tơ, dệt nhiễu Hồng Đô đứng trước nguy cơ mai một khi chỉ còn vài hộ ở làng sản xuất cầm chừng. Nhưng những năm gần đây, cùng với những cơ chế, chính sách của Nhà nước, của các cấp, các ngành, xã Thiệu Đô đã triển khai nhiều giải pháp nhằm khôi phục, tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm, tạo nhiều cơ chế hỗ trợ khôi phục nghề, nên nghề ươm tơ đã khởi sắc trở lại. Nhiều sản phẩm đã được đưa đi tiêu thụ ở nhiều tỉnh, thành trong nước, đặc biệt là thị trường nước ngoài như: Trung Quốc, Lào...

Rời xã Thiệu Đô, chúng tôi về xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc, một trong những nơi có làng nghề rèn cơ khí truyền thống lâu đời. Là người có hơn 20 năm gắn bó với nghề, anh Phạm Văn Bình, làng Ngọ, chia sẻ: “Đã có một thời gian, làng nghề rèn chao đảo trước sự xuất hiện ồ ạt của các loại dao, kéo nhập ngoại từ Trung Quốc, Thái Lan với mẫu mã đẹp, màu trắng sáng, giá rẻ hơn khiến đầu ra của sản phẩm rèn gặp nhiều khó khăn. Vì thế, ai cũng phải tự đi tìm đầu ra riêng cho mình. Để bán được hàng, hàng ngày tôi phải lặn lội hàng trăm km từ khắp các con đường, ngõ hẻm rao bán từng chiếc dao một... cứ như vậy đến mấy năm trời mới tìm được đầu ra ổn định”, anh Bình bộc bạch.

Nhắc đến làng nghề rèn cơ khí truyền thống, ông Phạm Anh Khoa, Chủ tịch UBND xã Tiến Lộc, cho biết: “Nghề rèn là một nghề khá vất vả, hiện đang thu hút 2.100/5.800 lao động của địa phương và là nguồn thu nhập chính của người dân trong xã, thu nhập trung bình từ 200.000-250.000 đồng/người/ngày. Từ xưa, Tiến Lộc đã nổi tiếng với nghề rèn gắn với tên các làng: Làng Ngọ, làng Bùi, làng Sơn. Những năm gần đây, nghề rèn đã bắt đầu du nhập vào 2 làng còn lại: Thị Trang và Xuân Hội. Mặc dù vậy, những người làm nghề vẫn gặp không ít khó khăn, nhất là đầu ra... Vì vậy, rất mong Nhà nước có những cơ chế, chính sách phù hợp để những người “giữ lửa” cho làng nghề truyền thống tiếp tục phát huy, phát triển”.

Rất cần những giải pháp căn cơ

Theo thống kê của Sở Công Thương, hiện toàn tỉnh có 36 nghề với 118 làng nghề công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN), với 75 làng nghề, làng có nghề truyền thống đã được Chủ tịch UBND tỉnh quyết định công nhận làng nghề. Trong đó, có 2 nhóm làng nghề hoạt động tốt, gồm: Nhóm làng nghề chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm; nhóm làng nghề sản xuất TTCN.

Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật và công nghệ thì những ngành nghề, sản phẩm của nghề, làng nghề truyền thống không còn phù hợp, có thị trường bấp bênh, nhu cầu sử dụng của con người không nhiều, tự nó sẽ mất đi. Đó là quy luật đào thải của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển nghề truyền thống, làng nghề truyền thống cần phải được coi trọng hơn bao giờ hết.

Trao đổi về vấn đề này, ông Trương Văn Tuyên, phụ trách Phòng Công nghiệp nông thôn, Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa cho biết: Một thực trạng hiện nay là tại các huyện miền núi, hoạt động ngành nghề TTCN phát triển chậm, một số nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát đang có nguy cơ mai một. Đa số các cơ sở sản xuất TTCN có quy mô sản xuất nhỏ (chủ yếu là hộ gia đình), vốn ít, công nghệ thiết bị đơn giản, khó mở rộng và phát triển chiều sâu. Phần lớn hàng TTCN mẫu mã đơn giản, chất lượng chưa cao, chưa có nhiều sản phẩm tạo được thương hiệu, khó cạnh tranh được các sản phẩm cùng loại được sản xuất tại các nhà máy; thị trường tiêu thụ sản phẩm còn nhiều hạn chế và thiếu tính ổn định, tiêu thụ nội địa vẫn là chính nên giá trị chưa cao, lượng xuất khẩu hàng năm không đều, thường phải qua nhiều khâu trung gian; phần lớn là lao động phụ, số thợ tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất ít, số lượng thợ ở các làng nghề đang có xu hướng giảm do nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp may mặc, giầy da. Thu nhập làng nghề dù tăng so với trước đây song vẫn thấp hơn lao động tại các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư phát triển TTCN còn khiêm tốn và thiếu đồng bộ, chủ yếu mới đầu tư hỗ trợ công tác đào tạo nghề, đổi mới công nghệ; vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm; công tác bảo vệ môi trường... chưa được quản lý chặt chẽ.

Theo ông Tuyên, nguyên nhân trên là do một số địa phương chưa quan tâm đúng mức tới công tác quy hoạch, kế hoạch, mô hình, xây dựng mô hình, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển TTCN. Các cơ sở ngành nghề nông thôn vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, chủ yếu là do khả năng sản xuất, khả năng thế chấp và trả nợ, cơ chế tín dụng và thủ tục vay vốn. Sản phẩm làng nghề tuy nhiều nhưng ít có sản phẩm mang thương hiệu vùng hoặc quốc gia; phần đa chất lượng sản phẩm trong các làng nghề còn thấp, không ổn định nguồn cung và không đồng đều giữa các làng nghề; giá thành bán ra còn cao nên khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế.

Mặt khác, các cơ sở làng nghề chưa quan tâm sâu đến sản xuất gắn với thị trường, chưa làm tốt công tác tiếp thị; các kênh phân phối sản phẩm ở nông thôn đều có sự tham gia phổ biến của tiểu thương dẫn đến phát sinh nhiều chi phí qua khâu trung gian, bị ép giá, lợi nhuận của người sản xuất bị giảm. Nhiều địa phương, nhất là cấp xã chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, chậm phát hiện và xử lý chưa kịp thời các vi phạm.

Làng nghề rèn cơ khí truyền thống ở xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác.

Công tác quản lý môi trường làng nghề các cấp chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu; đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ môi trường còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề còn thiếu. Việc huy động sự tham gia của các tổ chức và người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường còn hạn chế.

Trước thực trạng đó, những năm qua, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành các cơ chế, chính sách nhằm bảo tồn, phát triển ngành, nghề TTCN, trong đó có nghề truyền thống, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh nên nhìn chung một số nghề, làng nghề truyền thống đã được bảo tồn và phát triển ở dưới dạng tổ hợp tác, nhóm hộ và hộ gia đình; một số sản phẩm đã trở thành hàng hóa bán ra thị trường, như: Mây, tre đan; dệt thổ cẩm; rượu cần; nón lá; chiếu cói; đồ đúc đồng... đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho nhiều người dân trong những lúc nông nhàn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn.

Cùng với tiềm năng, lợi thế sẵn có, để bảo tồn và phát huy các nghề, làng nghề truyền thống ấy, rất cần những giải pháp cụ thể, như: Xây dựng chỉ dẫn địa lý, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, thương hiệu hàng hóa, đổi mới công nghệ, thiết bị; tiếp tục hỗ trợ thương hiệu, nhãn mác sản phẩm như: Mộc dân dụng, mây tre đan, nem chua; hỗ trợ và đào tạo cho các cơ sở sản xuất TTCN phát triển thương hiệu, nhãn hiệu, đặc biệt là những nghề truyền thống, nghề có khả năng phát triển độc lập và các nghề gắn với phát triển du lịch.

Đồng thời, mạnh dạn ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất TTCN như chế biến nguyên liệu, trang thiết bị máy móc, các dụng cụ cầm tay tinh xảo, sử dụng các loại hàng hóa và chất liệu mới, kỹ thuật bảo quản, đóng gói sản phẩm để tạo ra sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại, độc đáo về kiểu dáng. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm TTCN. Tuyên truyền, vận động thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh như: Cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam; chương trình hàng Việt Nam về nông thôn... Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và phát triển thị trường bằng các hình thức: Xây dựng website, phát hành các bản tin sản phẩm TTCN...; phát triển làng nghề gắn với du lịch trên địa bàn tỉnh; tăng cường công tác đào tạo nghề, phát huy hiệu quả sử dụng lao động sau đào tạo...

“Hiện còn rất nhiều bất cập đối với nghề, làng nghề truyền thống, nhất là nhân lực quản lý Nhà nước dưới hệ thống cơ sở còn thiếu và yếu. Nếu giải quyết được điều này làng nghề truyền thống mới thực sự tồn tại và phát triển”, ông Tuyên nhận định.

Trích nguồn: http://baothanhhoa.vn/